Bộ Công thương cũng nhìn nhận ngành sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước vẫn còn nhiều hạn chế như phần lớn mới ở mức độ lắp ráp đơn giản, dây chuyền sản xuất chủ yếu chỉ gồm bốn công đoạn chính là hàn, sơn, lắp ráp, kiểm tra.
Trong báo cáo vừa gửi đến đại biểu Quốc hội, Bộ Công thương cho rằng: Ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong hai năm trở lại đây. Năm 2015, lần đầu tiên sản lượng sản xuất, lắp ráp xe ôtô trong nước đạt trên 200.000 xe/năm, tốc độ tăng so với năm 2014 đạt 51%. Năm 2016, sản lượng tiếp tục tăng mạnh, đạt trên 283.300 xe/năm. Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ…
Ngành ôtô đã đóng góp hàng tỉ USD vào ngân sách nhà nước, góp phần giảm nhập siêu. Đồng thời tạo ra việc làm trực tiếp cho hơn 120.000 lao động.
Đến năm 2016, ngành sản xuất ôtô trong nước có 173 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp, trong đó 56 doanh nghiệp sản xuất xe từ linh kiện rời, 117 doanh nghiệp sản xuất từ xe cơ sở. Một số doanh nghiệp nội địa đã tham gia sâu vào chuỗi sản xuất ôtô toàn cầu. Tuy nhiên, đa phần các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Theo Bộ Công thương, tổng công suất lắp ráp thiết kế của ngành công nghiệp ôtô khoảng 500.000 xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47%, doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 53%. Có nhiều hãng lớn có hoạt động sản xuất, lắp ráp trong nước, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xe trong nước, với tổng sản lượng của thị trường xe du lịch khoảng 210.000 xe/năm trong năm 2016, trong đó sản lượng ôtô con trên 160.000 chiếc.
Các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đạt mục tiêu đề ra đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa (xe tải nhỏ đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 50%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 50% vượt chỉ tiêu so với quy hoạch).
Mặc dù đã có những kết quả nhất định, nhưng Bộ Công thương cũng nhìn nhận ngành sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước vẫn còn nhiều hạn chế như chưa đạt được tiêu chí của ngành sản xuất ôtô thực sự (phần lớn mới ở mức độ lắp ráp đơn giản), dây chuyền sản xuất chủ yếu chỉ gồm bốn công đoạn chính là hàn, sơn, lắp ráp, kiểm tra.
Đáng chú ý, giá bán xe vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Mức giá xe tại Việt Nam cao hơn gần hai lần so với các nước trong khu vực như Thái Lan và Indonesia và con số này còn lớn hơn nếu so với các nước có ngành công nghiệp ôtô đã phát triển ổn định như Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Lý giải nguyên nhân này, Bộ Công thương cho rằng có hàng loạt yếu tố như: Thuế, phí của nước ta cao, đồng thời sản lượng tích lũy trong nước thấp (các doanh nghiệp đang sản xuất dưới rất xa so với công suất thiết kế). Mặt khác do chất lượng xe sản xuất, lắp ráp trong nước mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn không bằng xe nhập khẩu, chưa tạo được sự hợp tác, liên kết và chuyên môn hóa giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, lắp ráp ôtô và sản xuất phụ tùng linh kiện; chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn.
Về tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến chín chỗ ngồi, mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7 – 10%. Trong đó, Công ty ôtô Trường Hải (Thaco) đạt 15 – 18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova, thấp hơn mục tiêu đề ra. Các sản phẩm đã được nội địa hóa mang hàm lượng công nghệ rất thấp như: săm, lốp ôtô, ghế ngồi, gương, kính, bộ dây điện, ắc-quy, sản phẩm nhựa… Có tới 80 – 90% nguyên liệu chính cho sản xuất linh kiện như thép hợp kim, hợp kim nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật cao hiện phải nhập khẩu. Thậm chí, vật liệu làm khuôn mẫu cũng chủ yếu phải nhập khẩu. Hằng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu khoảng 2-3,5 tỉ USD các linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản xuất lắp ráp và sửa chữa xe.
Bộ Công thương nhận định: Hiện, tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt được 65 – 70%, Thái Lan đạt tới 80%. Như vậy, nếu các nhà sản xuất ôtô trong nước không sớm có giải pháp hữu hiệu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, chắc chắn sẽ khó cạnh tranh với thị trường khu vực.
Theo Hải quan Online